Trong văn thơ, người nông dân trong thời kì thực dân nửa phong kiến gắn liền với cuộc sống đẫy rẫy bất công và gian khổ. Họ chỉ thực sự đổi đời khi Cách Mạng tháng 8 thành công, từ thân phận nô lệ họ thành lực lượng chính làm chủ đất nước. Tầng lớp nông dân bước vào văn học với một gương mặt mới và những tư tưởng tiến bộ. Một trong những nhà văn tiêu biểu cho thời kì này là Kim Lân với truyện ngắn Làng. Bằng ngòi bút chân thực và tinh tế, nhà văn đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật ông hai - hình mẫu chung của những người nông dân yêu làng và yêu nước sâu đậm cùng với sự chuyển biến đầy sâu sắc trong suy nghĩ.
Từ tình yêu làng thuần túy và truyền thống đã phat triển lên thành lòng tin yêu cách mạng. Làng Chợ Dầu là hình ảnh luôn trực sẵn trong tâm trí ông Hai. Cách thể hiện tình yêu với làng của ông đã để lại một ấn tượng đặc biệt. Đó là niềm tự hào, niềm kiêu hãnh và là cái tính hay khoe. Làng ông khang trang, giàu đẹp và quan trọng hơn cả là làng kháng chiến. Chiến sự nổ ra, cảnh nhà neo đơn buộc ông Hai phải rời xa làng quê yêu dấu.Sống giữa nơi xa lạ, trong một gia đình xa lạ với mụ chủ lắm điều và chua ngoa, cảm giác bí bách, ngột ngạt càng khiến ông nhớ tới làng. Những kí ức đẹp về làng như món đồ kỉ vật được ông mang ra ngắm nghía cho vơi đi nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ về những ngày lao động hăng say cũng anh em, toàn là những việc nặng nhọc " đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá..." nhưng cũng " há hỏng, bông phèng" mê man suốt cả ngày. Nghĩ tới những chuyện cũ thôi mà ông cũng thấy mình trẻ ra, tâm hồn sống dậy một niềm vui cũ. Trong đầu ông không xuất hiện những câu hỏi về cơm áo gạo tiền mà là những câu hỏi về làng, về kháng chiến " Không biết cái chòi gác ở dâud làng đã dựng xong chưa? Những đường hâm bí mật chắc còn là khướt lắm." Mọi lo lắng, nghĩ ngợi đều qui lại thành một cảm xúc cứ cồn cào ruột gan. " Chao ồi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!". Trong thâm tâm ông lão, không có gì thay thế được tình yêu làng sâu đậm nhưng rõ ràng đó không phải một tình yêu cục bộ, mù quáng. Ông Hai đã tự nhận thức được rằng làng thì yêu thật nhưng chỉ yêu khi nó gắn liền với Cách Mạng.
Sống giữa hai thời kì, ông Hai hiểu rõ hơn ai hơn hết sự đổi đời mà Cách Mạng đem lại. Từ dưới đáy của xã hội,người nông dân được cứu thoát khỏi tăm tối, họ trở thành lực lượng đông đảo và chủ chốt bảo vệ tự do của dân tộc. Sự nâng tầm ấy đã gieo vào lòng họ một sự cảm kích,biết ơn và tin tưởng vô cùng. Tình yêu nước và tin yêu CM thậm chí còn sâu sắc hơn khi nó bao hàm cả tình yêu làng tha thiết. Ông Hai cũng vậy. Những ngày tháng tản cư là khoảng thời gian mà hầu như ngày nào ông cũng tới phòng thông tin để nghe ngóng tình hình. Ông muốn hòa nhập vào với nhịp thở chung của Cách Mạng bởi ông yêu nước và vì trong đó có cả vận mệnh của làng ông. Cái nét độc đáo của tâm lí ấy được Kim Lân khắc họa vô cùng tự nhiên và tinh tế. Những tin tức thắng trận tác động mạnh mẽ vào tâm trí ông lão. Cái cách ông lẩm nhẩm tính chỗ này giết được tí, chỗ kia giết được tí, chôm nay dăm khâu, ngày mai dăm khẩu rồi hân hoan " làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm." đủ để thấy được sự quan tâm và lòng nhiệt thành của ông với Cách Mạng. Chính trong lúc này, tình yêu làng và tình yêu nước đã nảy nở sự giao thoa đặc biệt. Ông thấy ruột gan như múa cả lên bởi ông mong mỏi đất nước sớm hòa bình và hơn hết là ông được về làng, sống một cuộc sống bình yên. đó cũng là tâm lí chung của người nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp, bởi CM đã giải phóng cho họ khỏi xiềng xích, rọi sáng những mù mịt trong nhận thức và trí tuệ, giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tình yêu làng và yêu nước còn được thẻ hiện đầy sinh động thông qua tâm lí của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc.Từng câu từng chữ rành mạch nhưng ông không tin vào tai mình. Tiếp theo đó là một sự hụt hẫng, bất ngờ đến choáng váng, khiến cho " cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân", cái " rân rân " ấy là một sự xấu hổ, tủi nhục điếng người, khiến cho ông lão lặng đi đến không thở nổi. Phải là một ai tinh tường và nhạy cảm lắm mới có thể nhìn thấu những biểu hiện ấy bởi ông Hai luôn cố gắng che đậy những kiêu hãnh và tin yêu vừa bị sụp đổ. Vậy nhưng ông lão vẫn cố trấn tĩnh, tự cố thuyết phục rằng mình đã nghe lầm. Nhưng không, câu trả lời rành rọt, rõ ràng đến tàn nhẫn khiến ông Hai dù không muốn cũng phải chấp nhận sự thật. Một vết thương đã bị khoét sâu vào lòng ông, khiến ông tủi hổ đến nỗi chỉ còn biết lẳng lặng rút ra khỏi đám đông sau một câu nói đánh trống lảng: " hà, nắng gớm, về nào...". Từng bước đi của ông Hai như đeo đá, nặng nề, lầm lũi. Cúi gầm mặt, ông không muốn người ta thấy được nỗi đau đang hiện lên tê tái trên gương mặt mình. Dường như ông cảm thấy bị phản bội, tự trọng bị tổn thương, xem lẫn trong đó là cả nỗi sợ bị xua đuổi, bị xa lánh. Bao nhiêu đau đớn, nghẹn ngào dồn nén đã trở thành căm giận, phẫn nộ đến nỗi nhìn những đứa con sợ bố mà len lén chơi sậm sụi ở đầu nhà, ông vừa thấy thương vừa như thấy chúng như những đứa trẻ Việt gian đáng ghét!". Nhưng rồi chính ông lão cũng phải ngẫm nghĩ lại. Ông tự kiểm điểm từng người, những người đã sống chết được ở lại để bảo vệ từng tấc đất. Ông không tin họ có thể bán rẻ nơi gắn bó máu thịt với mình. Một luồng suy nghĩ khác lại đẩy ông Hai vào ngờ vực rồi phẫn uất. Một cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt đã diễn ra, dày vò ông đến cực độ. Phải yêu làng thế nào, phải trách nhiệm đến đâu, ông Hai mới có cái suy nghĩ ấy. Ông không thể chấp nhận cảnh làng mình bị vu oan trắng trợn nhưng càng không thể chứng kiến làng theo Tây. Đó là những dằng co và lo lắng hành hạ đầy đọa ông trong từng câu nói, từng giấc. Tin đồn làng chợ Dầu theo giặc đã trở thành nỗi ám ảnh đối với ông, chỉ cần nghe tiếng người bàn tán về việt gian, cam nhông là ông lủi vào một góc trốn tránh như một kẻ tội đồ. Ông xấu hổ với lối xóm, tủi nhục với chính bản. Đã có lúc xuât hiện trong tâm trí ông Hai hai con đường, hai lựa chọn mà đi con đường nào cũng gây nên nỗi đau lớn. Đã bị hắt hủi, xua đuổi như thế, liệu có nên về làng hay cứ tiếp tục ở lại và đi theo kháng chiến? Về lại làng, ông lại được sống giữa nơi chôn rau cắt rốn, nơi bao bọc cả tuổi thơ, nơi đã chứng kiến thăng trầm của đời người. Nhưng về làng là tự gieo mình vào kiếp nô lệ. Lại sống bần than, khổ cực, sống chui lủi và chịu bị áp bức như trâu bò. Về làng là bỏ kháng chiến, là thành Việt gian. Ý nghĩ ấy khiến ông rợn người. Giữa đất nước và quê hương, ông bắt buộc phải chọn một. Và cách mạng, ý chí đã thắng. Ông Hai tự nhủ rằng " Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Quyết định như vậy không hề dễ dàng nhưng là một chọn lựa đúng đắn. Song dù thế, tình yêu làng trong ông không hề mất đi, ông khồn can tâm chối bỏ cội rễ của mình. Tâm tư ấy có lẽ chỉ con ông được nghe. Những khi buồn lòng, ông thường bế con vào lòng mà thủ thỉ, đó là đối thoại mà cũng là độc thoại, Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính tâm hồn mình. lần nữa, sự phức tạp của tâm trạng lại được bộc lộ rất rõ. Ông cảm động khi nhìn thấy sự nhiệt thành của đứa con nhỏ với Cách mạng, với kháng chiến nhưng đồng thời cũng không muốn con quên đi làng Chợ Dầu.Những lần như thế, ông như cởi bỏ được tấm lòng, ông muốn mọi người hiểu cho ông, hiểu cho sự trung thành không dám đơn sai của bố con ông trước Cách Mạng. Song lẫn lộn trong tình yêu nước là có gì đó cố níu kéo tình cảm quê hương gắn bó ruột thịt, là một nỗi buồn nặng trĩu.
Ông Hai đã sống những những đau đớn ê chề, vì thế khi nghe được tin cải chính, ông như hồi sinh, ông trở lại với chính mình, với tình yêu làng, yêu nước hồn nhiên, nồng nhiệt. " Cái mặt buông thủi mọi ngày bỗng vui tươi, rặng rỡ, hẳn lên.Mồm bỏm bẻm nhau trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy..." Ông thay đổi trong dáng đi, nét mặt cử chỉ, không còn sự khó chịu bực tức thường ngày mà niềm nở hơn, dịu dàng hơn. Một niềm hạnh phúc không thể tả xiết trào lên vẹn đầy trong lòng ông lão. Làng ông lại là làng cách mạng, làng tinh thần, sự kiêu hãnh và tự hào lại thôi thúc ông trở lại với thói quen cũ. Ông lại đi khắp nơi khoe khoang về làng của mình, lần này hồ hởi hơn, vui mừng hơn, dường như ông chỉ nói để thỏa mãn bản thân mình
- Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn, Ông chủ tịch làng em lên cải chính. Ra láo ! LÁo hết!
Chưa có một ai bị đốt nhà lại vui mừng đến thế. Có lẽ niềm vui lấy lại được danh dự, lau sạch được vết ố cho làng đã át đi sự mất mát về vật chất. Đó âu cũng là một nét diễn biến tâm lí thường tình khi mà người ta có được điều họ mong muốn, họ chấp nhận đánh đổi. Nhà có thể xây lại nhưng niềm tin và tình yêu làng không thể bị lay chuyển lần nữa. Trong ông không chỉ còn toàn bản năng và cảm tính. Mọi yêu ghét hận thù đều đực nâng lên thành lí tính, thành nhận thức. Giờ đây, tình yêu nhà, yêu quê đã gắn liền với một tình cảm lớn hơn: lòng yêu nước.
Bằng sự linh hoạt đầy tự nhiên trong giọng kể và khả năng cảm nhận nội tâm tinh tế, Kim Lân đã khắc họa thành công hình tượng ông Hai nói riêng và hình tượng người nông dân sau cách mạng nói chung. Tình cảm với làng quê của họ đã cùng hòa vào tình yêu nước, tạo nên một sức mạnh diệu kì đánh tan sắt thép của kẻ thù. Tình cảm ấy là thước đo nhân phẩm, là sự sàng lọc và tôi luyện con người. Người nông dân đã thể hiện phẩm chất cao đẹp của mình khi mà vượt qua những thử thách không thể lường trước, họ vẫn luôn giữ được vẹn luoon những tình cảm sâu đậm.